Ái Mộ – Bồ Đề là một địa danh có nhiều di tích lịch sử, văn hóa. Nơi đây từng là đại bản doanh của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Đền Ghềnh là cách gọi thân quen của nhân dân địa phương, vì nơi đây xưa kia nước sông chảy xiết, cuộn ghềnh. Nước dữ đã làm thuyền qua lại trên sông hay lật và bị cuốn trôi. Nhưng rất lạ, miếu nhỏ thờ Thủy thần lại được gọi là Thiên Tiên Cổ điện, tức miếu thờ Tiên (trên trời). Phải chăng nơi đây đất lành nên Thiên – Thủy giao hòa? Do vị trí gần mép sông nên miếu bị sạt lở và được xây dựng lại nhưng miếu trở thành đền như ngày hôm nay là do việc xây dựng lại gắn với truyền thuyết ba bộ hài cốt của mẹ con Ngọc Hân công chúa – Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung thời Tây Sơn.
Ngọc Hân là công chúa thứ 21 của vua Lê Hiển Tông, tài sắc hơn người, đoan trang, kiều diễm, được mệnh danh là Chúa Tiên. Vua Lê Hiển Tông coi như viên ngọc quý. Chính vì thế, khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đem quân ra “Phù Lê diệt Trịnh” thành công, nhà vua đã chọn làm ý trung nhân cho Ngọc Hân. Cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Hân với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã xua đi sự nghi ngờ quân của triều đình nhà Lê với Tây Sơn. Nhờ đó mà đất nước được yên bình, thoát cảnh nồi da, xáo thịt. Công chúa Ngọc Hân thực sự đã đóng vai trò cầu nối cho sự giao hòa Bắc- Nam trong hoàn cảnh chính trị phức tạp lúc bấy giờ.
Sau khi nhà Lê đổ, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (25 tháng Chạp năm Kỷ Dậu, tức năm 1789), lấy hiệu là Quang Trung, Ngọc Hân được phong là Bắc Cung Hoàng hậu. Bắc Cung Hoàng hậu là một người thông minh, học cao, biết rộng, biết người, đoán xét được mọi việc nên đã giữ được vai trò quan trọng trong nghiệp lớn của vua Quang Trung.
Nhưng tạo hóa vần xoay, càn khôn biến đổi, sinh tử là chuyện thường khó ai biết được. Cuộc nhân duyên như định mệnh của đôi trai tài Nguyễn Huệ, gái thuyền quyên Ngọc Hân rất ngắn ngủi, chẳng được vẹn toàn. Sau 6 năm, nhà vua đã ra đi đột ngột, để lại Hoàng hậu còn trẻ (tuổi vừa 22) và 2 con thơ dại. Nỗi đau thương từ cái chết của chồng đã dồn nén vào những vần thơ của trang liệt nữ, nàng trách trời than phận:
Mà nay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.
Nhưng tài thơ không phải chỉ để khóc than, Ngọc Hân đã dùng tài thơ để ca ngợi công đức của chồng với sơn hà, xã tắc, với trăm dân, người Anh hùng áo vải:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày ngự vận càng lâu,
Mà nay lượng cả ơn sâu,
Móc mưa rơi khắp chín châu đượm nhuần.
Công nhường ấy mà người nhường ấy,
Cõi thọ sao nhường ấy hòa công…
Quả thật, biểu hiện nỗi xót thương trước sự biệt ly với chồng của Ngọc Hân như thế thật xưa nay hiếm.
Tài, đức và sự trinh liệt của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã thông đến trời đất, nên sau khi bà mất đi, bà hiển linh và trở nên bất tử. Dân gian truyền tụng câu chuyện về ba bộ hài cốt của mẹ con bà. Chuyện kể rằng, quan quân nhà Nguyễn đã sát hại mẹ con bà để trừ hậu họa. Hài cốt của mẹ con bà được đưa về an táng tại quê nhà và nhân dân đã lập miếu thờ. Bốn mươi năm sau, triều đình nhà Nguyễn tiến tin này đã trị tội quan sở tại và người coi miếu… lệnh triệt phá miếu, quật hài cốt đem thả xuống sông Hồng. Nhưng việc thả hài cốt xuống sông đã không thực hiện được, bởi vì giông tố nổi lên khiến thuyền không thể rời bến nên xác bà vẫn ở trên bờ. Lòng dân Ái Mộ thương xót đã đắp mộ và xây miếu thờ. Miếu thờ ngày ấy chính là đền thờ hôm nay. Bà linh ứng báo mộng cho dân làng xây đền thờ. Hoàng hậu Lê Ngọc Hân trở thành Thần chủ của ngôi đền này. Bà được dân gian coi là một hóa thân của Mẫu Thoải (Thủy), một trong ba vị Thánh Mẫu trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam.
Theo tộc phả của dòng họ Đặng Đình ở làng Ái Mộ thì đền Ghềnh được bà Đặng Thị Bản bỏ tiền và công đi quyên góp để xây dựng. Lý do bà Bản làm việc này là vì bà bị ốm và được báo mộng về việc xây đền. Đền được xây dựng vào năm 1858 trên một khuôn viên rộng chừng 3 mẫu Bắc bộ. Trong khuôn viên có gò núi Kim Quy, cây tốt um tùm, các loại chim hội về làm tổ, có khe nước róc rách. Thật là một địa linh: tụ sơn, lưu thủy. Sau khi xây dựng xong, bà là người trông coi và trở thành Tổ của đền. Những người kế tục bà đều là con cháu dòng họ Đặng Đình, nhưng phải là người có căn duyên.
Hệ thống điện Thần trong đền Ghềnh có nét khác biệt so với điện Thần tứ phủ thông thường:
Trong cung cấp chỉ có tượng công chúa Ngọc Hân được coi là Mẫu Thoải mà không có Mẫu Thiên, Mẫu Địa (Thượng Ngàn).
Hai bên phía ngoài Hậu Cung là Tứ vị Thánh Chầu, cách bài trí này ít gặp ở các điện Thần Tứ phủ khác như Phủ Tây Hồ, phủ Giầy, đền Mẫu Tuyên Quang, Lạng Sơn…
Thông thường tượng các quan Hoàng Khâm Trực điện Thần Mẫu (quan Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười) được đặt tại Công đồng các quan, ngay phía trước 5 vị Tôn Ông. Nhưng ở đây, các vị này lại được đặt ơ hai bên quay vào chính điện. Đây lại là một điểm khác nữa.
Sự khác biệt thứ tư là Tứ phủ Thánh Cậu được đặt ở hai bên trước cửa lẩu Sơn Trang. Rất ít khi thấy nơi nào thờ Tứ phủ Thánh Cậu trong chính điện mà chỉ có lầu Cô, lầu Cậu ở phía trước đền.
Hai Lầu Cô ở đền Ghềnh đặt trước phủ Chúa Sơn Trang là sự khác biệt thứ năm.
Điểm khác biệt thứ sáu là trước cửa đền, ngoài sân có ban thờ ông Hồ (trong đạo Mẫu gọi là Quan thanh tra) quay thẳng vào chính điện. Cách bài trí này không có ở các đền Mẫu khác. Chưa thể hiện rõ căn nguyên sự khác biệt, nhưng sự khác biệt này làm nên nét độc đáo của đền Ghềnh.
Giống như mọi đền phủ khác, hàng năm, đền Ghềnh có tổ chức lễ hội. Lễ hội đền Ghềnh là một trong những lễ hội lớn trong vùng được tổ chức từ mùng 6 đến 12/8 Âm lịch. Trong lễ hội có nhiều hoạt động khác nhau, đa dạng và phong phú. Nghi lễ đáng lưu ý nhất là lễ rước nước, giống như các lễ hội vùng ven sông Hồng. Rước nước mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, vì đối với cây lúa nước thì “Nhất nước, nhì phân”. Trong lễ hội đền Ghềnh, nước từ giữa dòng sông còn được coi là có ý nghĩa để rửa hận cho Hoàng hậu Lê Ngọc Hân và 2 con vì hài cốt của họ bị ném xuống sông Hồng. Tuy nhiên, trước kia, do sự hẹp hòi, nhỏ nhen của triều đình nhà Nguyễn mà nghi lễ rước nước chỉ được coi là lễ Mẫu và nước lấy về đề thờ Mẫu quanh năm.
Không rõ lệ có từ bao giờ và do ai đặt ra mà dân thôn cũng như khách thập phương về dự hội đền Ghềnh đều vác cây mía trên ngọn có treo chùm khế và xâu bánh đa để tưởng nhớ và như diễn lại cuộc hành quân của nghĩa binh Quang Trung năm xưa truy đuổi quân Thanh. Cảnh trảy hội như thế này ngày nay không còn, nhưng tục dâng bánh đa và khế vẫn có. Đây là nét văn hóa truyền thống ở đền Ghềnh.
Giá trị của đền Ghềnh còn được thể hiện ở những di vật. Trước hết, phải kể đến quả chuông được đúc vào thời Tự Đức (1876). Rất tiếc, bài minh trên chuông đã mờ nên không thể đọc được nội dung. Hai cỗ kiệu: 1 kiệu Long Đình và 1 kiệu Mẫu. Đây là những cỗ kiệu lớn được trang trí bằng nghệ thuật chạm trổ rất đẹp. Nhưng đặc biệt hơn cả là những giá trị phi vật thể nằm ở các bức đại tự, cuốn thư và hoành phi, câu đối. Nội dung của những chữ được thể hiện trên các di vật này đều tập trung vào ca ngợi cảnh đẹp, đất thiêng, công trạng, đức độ của các vị Thần được thờ, nơi ngôi đền tọa lạc. Các bức đại tự khẳng định giá trị của đền như: “Đức dày của đất” (Khôn đức hậu), “Mây lành chở che” (Từ vân ấm), “Vua trong nữ giới” (Nữ trưng vương), “Điện cổ Thần Tiên” (Thiên Tiên cổ điện), “Bà mẹ của sông nước” (Thủy Tiên Thánh Mẫu)…
Có thể nói, đền Ghềnh là nơi hội tụ anh linh tụ khí, thật là linh thiêng. Tính thiêng của đền còn bởi dư âm của trang liệt nữ – Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Vì thế, về với đền Ghềnh là đến thụ nhận sinh khí trong lành, nơi Thiên – Thủy giao hòa để được tiếp thêm sinh lực siêu phàm của trời đất. Về đây cũng là để học tập tấm gương trinh liệt của người phụ nữ thờ chồng nuôi con, để ghi ơn người mẹ, đại diện cho một triều đại vẻ vang – triều Tây Sơn huy hoàng trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Sau hết, lớn hơn cả, về đền Ghềnh để cầu cho quốc thái, dân an, gia đình hòa thuận, nên khách thập phương mỗi ngày về một đông, đem tâm tụ tạo đền được khang trang như hôm nay.