Lệ Mật là một làng cổ vốn có tên “Trù Mật”, có lẽ vì kỵ húy tên chúa Trịnh Chù (tức Trịnh Cương, 1686-1729) nên mới phải đổi. Vào đầu thời Nguyễn đây là một xã thuộc tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Năm 1961, huyện Gia Lâm được nhập về thành phố Hà Nội. Năm 2003, một phần huyện Gia Lâm lại được tách ra để lập quận Long Biên, khi đó xã Việt Hưng đổi thành phường Việt Hưng và thuộc về quận mới này.
Tương truyền, vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) có một cô con gái cưng thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (sông Đuống). Một hôm, công chúa bị đắm thuyền và mất tích, nhiều người đã lặn xuống nhưng không tìm thấy. Cuối cùng, một người xuất thân bắt rắn ở Lệ Mật tên là Hoàng Đức Trung mới đưa được xác công chúa lên bờ. Vua ban thưởng gấm vóc, vàng bạc nhưng ông từ chối tất cả, chỉ xin cho các đồng hương sang khai khẩn vùng đất hoang phía Đông-Nam kinh thành Thăng Long.
Được vua ưng thuận, dân Lệ Mật và mấy làng xung quanh đã di cư và biến vùng đất ven đô ấy dần dần thành 13 trang trại mà sách sử gọi là khu “Thập Tam Trại”. Hoàng Đức Trung làm hoạn quan ở trong cung còn giúp đỡ dân làng được nhiều việc khác. Sau khi ngài mất, Lệ Mật và các làng liên quan đều lập điện thờ và suy tôn ngài là thành hoàng.
Đặc biệt, dân Lệ Mật còn phát triển nghề bắt rắn và nuôi rắn thành truyền thống kéo dài cho đến hôm nay. Làng Lệ Mật vốn có hai ngôi đình: đình Thượng (nay không còn) thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và đình Hạ thờ ông Hoàng Đức Trung. Hàng năm, dân chúng mở hội đình Hạ và tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật về rắn.
Về không gian và bố cục mặt bằng hiện nay, trước hết, đình quay nhìn về hướng Nam, đó là hướng của quyền uy “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (Thánh nhân – người tài giỏi, ngồi quay về hướng Nam để nghe lời tâu bày của chúng sinh…mà cứu vớt). Hướng này cũng gắn với ước vọng của tín ngưỡng thời trước, với ý thức đề cao thiện tâm vì đây là hướng của sinh lực vũ trụ, của trí tuệ (có trí tuệ mới diệt trừ được ngu tối mà ngu tối là mầm mống của tội ác). Đặc điểm thứ hai của đình là hệ thống nước liên quan đến kiến trúc. Ở đây, vừa có hồ tự nhiên nằm ngay phía trước, mang tư cách Não thủy. Ngày xưa, bên trái hồ là một ngôi chợ quê (gắn với chùa), hồi đó, chợ chùa được coi như một cặp phạm trù thống nhất, hai thể không gian mang tính đối lập. Nhưng nhờ chùa, một không gian thánh thiện đã làm cân bằng lại những sự tính toán vị kỷ của việc bán buôn (chợ) để con người sống đẹp hơn, nhân ái hơn…Bên phải, trong khuôn viên của đình, chùa, miếu, sát Nghi môn là một giếng tròn lớn (đường kính trên 20m) mang tư cách Minh đường, nơi hội tụ ánh sáng thiêng liêng, nguồn sinh khí của tầng trên chảy xuống trần gian. Vốn xưa đây là giếng làng, một đấu tích chung trong cấu trúc thôn dã cổ truyền của dân tộc ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Một điểm tụ thủy từ dòng nước ngọt trời ban. Có lẽ vì thế mà giếng này đã có tích công chúa gửi cá từ Hồ Tây qua cơn mưa trước hội để làm lễ tế Thần.
Vượt qua phần Não thủy và Minh đường là đến Nghi môn bề thế được xây vào nửa đầu thế kỷ XX theo phong cách cổ truyền. Phần dưới của Nghi môn theo lối cổng thành, chia 3 cửa, ở giữa là cửa Thần với kích thước khá lớn có thể rước kiệu qua, 2 cửa bên cân xứng, nhỏ hơn, là cửa ra vào thường nhật của người có trách nhiệm với đình. Hai bên Nghi môn xây 2 tường hồi thấp nhô ra phía trước và sau rồi đều được kết thúc bằng 4 trụ lớn. Mỗi đỉnh trụ đều được gắn một Lân ngồi trong thế chầu vào. Người xưa tin rằng, Lân là linh vật tượng trưng cho sức mạnh của tầng trên, hiện thân của sự trong sáng và trí tuệ. Phần lồng đèn đầu cột có 4 mặt đều đắp nổi linh vật và thân trụ đắp cân đối. Trang trí mặt trong tường hồi là tướng giữ cửa- phần “cánh gà” nóc tường, nối Nghi môn với cột, thường đắp mây cuộn khảm sành sứ, làm nền cho “Bát Tiên quá hải” cưỡi loài Thủy tộc. Thực ra, bố cục của các mảng đắp này chưa được thật chặt chẽ, song chúng đã tạo nên được một vẻ đẹp bất ngờ. Phần trên của Nghi môn được làm theo kiểu lầu với ba kiến trúc tách rời, tạo thế Ngũ môn như để biểu hiện quy quyền to lớn của Thành hoàng làng. Mặt khác, những linh vật trên “đầu kìm” và biểu tượng ở góc đao đều như gắn với thế lực của bàu trời trong ý thức cầu mưa truyền đời của người xưa. Rời Nghi môn, qua một khoảng sân rộng, hai bên có nhà Giải vũ, nơi dừng chân sửa lễ của dân Thập tam trại và các họ về lễ Thánh trong ngày hội…
Chính giữa sân, trên trục Thần đạo là bức bình phong. Truyền rằng, trước đây, bình phong được làm đẹp hơn bây giờ, với mặt trước đắp nổi một Hổ vàng đang bước từ núi đá gập ghềnh xuống, mặt quay ra. Mặt trong đắp Rồng cuốn thủy, điểm xuyết những cụm mây cuộn.
Tiếp sau bình phong là một sân rộng, nơi thường gắn với nhiều sinh hoạt của lễ hội, đặc biệt là việc diễn lại tích vị Thần đấu với Giảo Long. Cuối sân, một Nghi môn nội, đơn giản, ngăn cách giữa không gian sinh hoạt cộng đồng với chốn linh thiêng. Đầu hai trụ chính cũng đặt Lân ngồi, nối giữa cột cái và cột nạnh là một bức tường có mái, thân tường đắp Voi cõng bành như nhằm tôn vinh chiến công của đức Thành hoàng làng. Sau Nghi môn nội là một sân nhỏ vừa đủ để dựng Tả, Hữu vu ở hai bên (mỗi tòa 5 gian) và đặt ở chính giữa giữa là toàn Phương đình 2 tầng 8 mái- sản phẩm khoảng đầu thế kỷ XX. Tòa này cỏ có 4 cột vuông, không theo cách thức phổ biến của kiến trúc cổ truyền, không có bờ nóc, mà từ chính tâm trên đỉnh có 4 “bờ guột” chạy thẳng ra 4 góc. Từ thân cột các hệ “đấu củng” theo lối chồng rường dưới dạng cánh gà đầy sáng tạo, đã phối hợp cùng xà vươn ra đỡ mái. Hiện tượng ít cột đã dẫn đến sự thông thoáng cho kiến trúc, đồng thời, cũng tạo cho các bộ phận kết cấu khác có điều kiện hơn trong việc chạm khắc mà cụ thể ở đây là các đề tài thuộc hệ tứ linh và các hoa quả thiêng mang tính biểu tượng như: na, lựu, phật thủ…loại có nhiều hạt, nhiều tay gắn với ước vọng cầu sinh sôi phát triển, dồi dào mang tính chất cầu trường thọ và trừ tà ma…
Điều đáng quan tâm của tòa Phương đình này, thực ở ở ý nghĩa triết học gắn với kiến trúc, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy kiến trúc này gắn với dịch học. Và, như thế, kiến trúc này như một ước vọng cầu sinh sôi phát triển, đã một thời dài tồn tại trong tâm thức người xưa.
Ngay sau tòa Phương đình là tòa Đại đình, gần gũi kiểu kiến trúc “Tứ thủy quy đường”, tường hồi bít đốc. Về cơ bản, kiến trúc này gần như được làm lại hoàn toàn với kết cấu đơn giản, chạm khắc vừa phải…Tuy nhiên, nếu lọc kỹ về cấu trúc, chúng ta vẫn tìm thấy ở đây nhiều dấu tích từ khá sớm, mang giá trị nghệ thuật cao như: 2 dầu dư chạm Rồng theo lối bong kênh – lộng hiện còn gắn ở “bộ vì” phía ngoài của tòa “Ống muống” (bên trên ban thờ Công đồng), chúng thuộc phong cách Mạc, có niên đại khoảng thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Theo người già địa phương, thì chắc chắn chúng là của ngôi đình Lệ Mật cũ (gốc). Như vậy, đình này ít nhất đã có niên đại khởi dựng xấp xỉ 400 năm tuổi, là một trong không nhiều đình làng cổ nhất nước ta. Lùi vào cuối tòa Ống muống, thì dấu tích nghệ thuật với niên đại khoảng giữa và cuối thế kỷ XVII đã còn lại nhiều hơn. Đó là những đầu dư chạm Rồng khá chuẩn mực và sắc nét của đương thời, rồi một số mảng chạm vân xoắn và có thể cả một số chữ Hán nổi….
Đình Lệ Mật hiện khá khang trang với nhiều đồ thời tự, lớp trong lớp ngoài nghiêm chỉnh mang giá trị tương đồng như ở nhiều di tích khác có cùng niên dại vào thế kỷ XIX-XX. Song, hiện vật cổ thì ở đây có một Nhang án rất quý, tuy Nhang án chỉ mang niên đại vào thế kỷ XVII và XVIII nhưng điều đáng quan tâm chính của nó là ở đề tài trang trí trong các ô hộc. Thực ra, những đường gờ nổi lớn phân chia các ô hộc to nhỏ khác nhau đã đủ để Nhang án là một hiện vật điêu khắc đích thực, các đường phân chia này đã phần nào tạo độ sâu nâng các hình tượng trong lòng nó lên mức chuẩn mực. Đó là những con Rồng, Lân, Hổ phù, hoa lá cách điệu, những con Phượng đầy chất dân gian với động tác vô cùng sôi động, rồi những trụ lửng có tai treo đầu Rồng ở hai bên và đặc biệt là hình tượng Bát bửu gồm quạt vả và sừng, bút lông, hòm sách…Tất nhiên, mỗi đề tài đều có ý nghĩa riêng và đều hướng tới mọi điều tốt lành cụ thể cho cuộc sống nơi trần thế. Trong cách thể hiện, bao giờ chúng cũng có nhiều chi tiết phụ (dải lụa, vân đao…) để nâng cao hơn về giá trị nghệ thuật. Nhưng cái gì hiếm và đẹp cái đó thường quý, như thế, khi đồ Bát bửu còn rất hiếm gặp trên điêu khắc ở nước ta vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, thì ở Nhang án này chúng đã là những tác phẩm trau chuốt, tinh tế, đã góp một tiếng nói vào lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt.
Ngoài ra, ở đình này còn có một bát hương gốm trắng xám, to vừa phải, được làm theo kiểu cặp ba, có 4 chân dạng con Quỳ (hai bên, trước, sau) với trang trí Rồng, diềm lá sồi cách điệu trong hình thức nổi gồ ghề…Đây là sản phẩm của nghệ thuật vào thế kỷ XVIII và gần như là một hiện vật “độc nhất vô nhị” hiện nay. Tại hậu cung của đình còn có 1 ngai và bài vị, tuy có tu sửa đổi chút vào thế kỷ XIX, nhưng về cơ bản chúng vẫn là một cặp hiện vật rất đẹp và quý của nghệ thuật vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Gần đây, đình được bổ sung một pho tượng Thần to như người bình thường, thực ra thì phần nhiều ở đình làng chỉ có ngai và vị. Đình có tượng chỉ khi ý nghĩa khởi nguyên bị thay đổi, hay nhiều tính chất “đền” thờ Thần đã được thâm nhập mạnh hơn vào đình. Có lẽ, đây là một hiện tượng đã xảy ra với đình Lệ Mật trong thời hiện nay.
Múa giảo long – lễ hội đình Lệ Mật.
Lễ hội Lệ Mật được mở ngày 23/3 âm lịch hàng năm, tưởng nhớ Hoàng Đức Trung, người có công trong việc đưa người nghèo từ làng Lệ Mật tới vùng kinh đô khẩn hoang, lập ra 13 trại ở tây thành Thăng Long (quận Ba Đình ngày nay). Ông đã được dân làng suy tôn là Thành Hoàng cùa làng. Từ sáng sớm ngày 23/3 đại diện con cháu của 13 trại phía Tây thành Thăng Long xưa đội 13 mâm lễ vật mang từ kinh đô về đình làng Lệ Mật để dự hội.
Phần lễ của hội bao gồm: lễ rước nước từ giếng làng, rước cá chép vào đình Thánh, Rước cỗ (lễ vật) của 13 trại ở quận Ba Đình về làng dâng thần. Phần hội đặc sắc nhất là trò múa rắn. Con rắn (được làm bằng nan tre lợp vải) tượng trưng cho loài thuỷ quái đã bị chàng trai họ Hoàng dùng sức mạnh và ý chí của mình hạ gục. Nhạc múa là dàn bát âm và tiếng trống nhịp đôi kết hợp dồn dập, náo nức.
Hội làng Lệ Mật là cơ hội để hàng năm con cháu trong làng (gọi là dân cựu quán) và con cháu đi xa khai hoang bên kinh đô (gọi là dân kinh quán) gặp gỡ nhau ôn lại trang sử dựng làng đầy gian nan thử thách từ xa xưa, cùng chung niềm vui và lòng biết ơn đối với tổ tiên.